Thân thế Hoạn quan Lý_Thường_Kiệt

Nghiên cứu của Hoàng Xuân Hãn

Có một tranh cãi rất lớn về thông tin [Lý Thường Kiệt là hoạn quan]. Một số ý kiến cho rằng, "hoạn quan" là [Sĩ hoạn; 仕宦], tức là "người thuộc tầng lớp làm quan" để ám chỉ xuất thân nhà nhà làm quan của ông, và phủ định việc Lý Thường Kiệt là hoạn quan. Tuy nhiên, theo dẫn chứng của Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt đúng là một hoạn quan, và rất có thể ông đã tự hoạn mình để có thể đạt được danh tiếng trên con đường sự nghiệp của mình.

Phần "Vào cấm đình" thuộc Chương I: Gốc tích của Hoàng Xuân Hãn đưa ra rất nhiều bằng chứng về vấn đề này:

Năm lên 23 tuổi, là năm Tân Tỵ (1041), niên hiệu Can Phù Hữu Đạo đời Lý Thái Tông, ông (Lý Thường Kiệt) được bổ vào ngạch thi vệ để hầu vua, và sung chức Hoàng môn chỉ hậu. Chức này là một chức hoạn quan.

Như trên đã nói, ông cưới vợ mấy năm về trước[25]. Thế thì, vì lẽ gì ông lại tĩnh thân để làm quan hoạn? Về việc này có nhiều thuyết.

Bia LX dựng đời Lý[26], chỉ nói tóm tắt rằng: "Lúc ông còn nhược quán, được cử vào cấm thát hầu Thái Tông hoàng đế". Hai chữ "nhược quán" nghĩa là tuổi vào khoảng hai mươi, gần đúng như lời bia NBS[27]. Sách VĐƯL đời Trần[28], chép rằng: "Vì ông có dáng mặt đẹp, nên mới tĩnh thân mà sung vào chức Hoàng môn chỉ hậu". Theo hai sử liệu xưa trên, thì ông tự yếm mà làm quan hoạn.

Nhưng bia NBS có kể lại rằng: "Về việc này, có hai thuyết. Một thuyết: lúc vua Lý Thái Tông đánh bắt được Nùng Trí Cao rồi lại thả ra (1041), ông nhất thiết can; vua cho là thất lễ, bèn phạt bắt tĩnh thân. Sau khi ông trở về nhà, vua lại triệu vào hầu cận". Thuyết thứ hai là thuyết đã thấy ở sách VĐUL; rằng: Vua thấy mặt mũi đẹp đẽ, cho ông tiền ba vạn, bảo tự yếm.

Lý Thường Kiệt đã tự yếm; đó là một sự thật, vì tuy thần tích có nói ông đã lấy vợ, mà sau, sử ta cũng như sách Mộng khê bút đàm của người Tống đều nóiông là một hoạn quan. Thuyết nói ông vì can vua mà bị nhục hình, thì chắc sai. Việc bắt và tha Nùng Trí Cao là vào tháng 11 năm Tân Tỵ, 1041. Và cũng nămấy ông được vào cấm thát. Không lẽ trong hai tháng cuối năm, mà ông bị phạt nặng rồi được cất lên cao như thế. Vả không lẽ vua vừa tha và phong hầu cho một nghịch thần, mà lại bắt tự yếm một người tôi trung, trẻ tuổi.

Thuyết sau có lý hơn. Hoạn quan xưa nay nhiều quyền thế, vì thường ngày được ở cạnh vua. Nhất là từ đời Đường, hoạn quan lại càng được thế. Khi trước, tuy được vua tin nghe, những hoạn quan cũng thường chỉ hành động trong cung thất. Từ đời Đường, thì được công nhiên cầm chính quyền hay làm đại tướng. Vì những lẽ ấy, đời sau lắm kẻ tự tĩnh thân để được chọn. Đối với Lý Thường Kiệt, có đặc biệt hơn là được vua ban tiền và sai làm. Ông nghe lời. Bấy giờ ông 23 tuổi. Không biết bà vợ ra sao, hay là lúc ấy đã mất rồi. Không sách nào nói đến.

Ông vào cấm thát. "Chưa được một kỷ (12 năm), tiếng nổi nội đình" (bia LX). Được thăng nhiều lần, lên đến chức Đô tri, ông coi tất cả mọi việctrong cung (VĐUL và bia NBS). Năm Lý Thánh Tông lên ngôi (1054, ông 36 tuổi), vì đã có công phù dực, ông được thăng chức Bổng hành quân hiệu úy, tức là một chức võ quan cao cấp. Hằng ngày, ông hầu cận bên vua, hiến việc tốt, can việc xấu, giúp vua hết mọi cách. Vì cần lao giúp rập, nên được cất lên chức Kiểm hiệu thái bảo (bia LX), tức là một chức tại triều rất cao.

— Phần "Vào cấm đình" của Chương I: Gốc tích của sách Lý Thường Kiệt, tác giả Hoàng Xuân Hãn.

Sách sử ghi nhận

Hầu hết các sách sử Việt Nam xuất hiện từ thời Lê sơ cùng nhà Nguyễn, và khi chép về Lý Thường Kiệt cũng đã xác nhận ông là một hoạn quan, hay gọi là [Quan giám]. Cụ thể như sau:

  • Việt điện u linh tập[29] - Thái úy Trung Phụ Dũng Vũ Uy Thắng công:"Ông nhiều mưu lược, có tài tướng soái, lúc nhỏ phong tư tuấn nhã, có tiếng khen ra ngoài, được sung làm chức Hoàng Môn Ký Hầu...Tiếm bình: Lý Thái úy là một quan Trung Thường Thị. Trải thời ba triều, thuỷ chung không có tì vết, phương Bắc bẻ gãy được nhà Tống lớn, phương Nam bình được nước Chiêm mạnh, kể cái công nghiệp ở triều miếu thì giống như Lê Phụng Hiểu, Lý Đạo Thành. Sống làm danh tướng, chết làm danh thần, thật là không lấy gì làm thẹn mặt vậy; ai bảo trong phường quan Giám lại không có nhân vật xuất sắc như thế, công nghiệp vĩ đại như thế!"
  • Đại Việt sử ký toàn thư - Trần triều Thái Tông hoàng đế bản kỷ:"Mùa đông, tháng 10, ban tiền cho Phạm Ứng Mộng, bảo tự hoạn để vào hầu. Trước đó, vua nằm mơ đi chơi thấy thần nhân chỉ một người bảo vua: "Người này có thể làm Hành khiển". Tỉnh dậy, không biết là người nào. Một hôm tan buổi chầu, vua ngự ra ngoài thành, thấy một người con trai theo học ở cửa nam thành, hình dáng giống hệt người trong mộng, vua gọi đến hỏi, người đó ứng đối giống như những lời trong mộng. Vua muốn trao cho chức Hành khiển, nhưng thấy khó, mới cho 400 quan tiền bảo tự hoạn, ban tên là Ứng Mộng. Sau này thăng dần đến chức Hành khiển. Đó là bắt chước lệ cũ của triều Lý, dùng Lý Thường Kiệt và Lý Thường Hiến vậy”.
  • Đại Việt sử ký tiền biên - Lý triều Nhân Tông hoàng đế bản kỷ:"Mùa hạ tháng 6, Thái úy Lý Thường Kiệt mất. Lý Thường Kiệt nhiều mưu lược có tài làm tướng. Khi còn ít tuổi, vì có tướng mạo đẹp, tự thiến sung chức Hoàng môn chi hậu...”
  • Lịch triều hiến chương loại chí:"Ông người ở phường Thái Hòa, thành Thăng Long. Lúc trẻ dáng điệu bảnh bao, tự thiến mình, được sung chức Hoàng môn chi hậu".
  • Khâm định Việt sử thông giám cương mục:"Giáp Dần, năm thứ 4 (1254). (Tống, năm Bảo Hựu thứ 2). Tháng 10, mùa đông. Nhà vua bắt Phạm Ứng Mộng tự thiến mình để vào hầu trong cung cấm. Nhà vua chiêm bao thấy mình đi chơi, gặp thần nhân trỏ vào một người mà bảo vua rằng: "Người này có thể làm hành khiển được". Lúc tỉnh dậy, nhà vua ghi lấy việc ấy. Một hôm, sau khi tan chầu rồi, vua ra chơi ngoài thành, thấy một người con trai đi từ phía nam lại, trông hệt như người mà mình đã thấy trong lúc chiêm bao. Gọi lại hỏi, người ấy đối đáp cũng như những lời đã nói trong lúc chiêm bao. Ý nhà vua muốn cho làm Hành khiển, nhưng nghĩ khó khăn không biết làm thế nào cho hợp lệ, liền ban cho bốn trăm quan tiền để tự thiến mình, đặt tên cho là Ứng Mộng, sau thăng dần lên đến chức Hành khiển. Việc này có lẽ bắt chước như việc dùng Lý Thường Kiệt, Lý Thường Hiến ở triều nhà Lý".
  • Đại Nam thực lục - Đệ nhị kỷ chép lời bàn của vua Minh Mạng:"Ất Mùi, Minh Mệnh năm thứ 16... Tựu trung Lý Thường Kiệt nhà Lý tuy ưu việt về phần võ lược, nhưng xuất thân từ hoạn quan".

Dù cho nhiều ý kiến trái chiều về sự thật về thân thế hoạn quan của Lý Thường Kiệt, cũng như tất cả các sách đều là từ sau thời nhà Hậu Lê - khoảng thời đại chuộng Nho giáo nhất trong lịch sử Việt Nam. Thế nhưng cơ bản có thể thấy được việc ông là hoạn quan đã được [công nhận một cách chính thức] từ rất nhiều bộ sử lớn, ít nhất là với quan niệm của người Việt từ thời Hậu Lê trở đi.